Tranh Thangka 唐卡
唐卡,也叫唐嘎,唐喀,是藏文的音译,指用彩缎装裱后悬挂供奉的宗教卷轴画,是藏族文化中一种独具特色的绘画艺术形式。具有鲜明的民族特点和浓郁的宗教色彩的唐卡,色泽鲜艳,璀璨夺目,即使经几百年历史,仍旧色泽艳丽明亮,因此被誉为中国民族绘画艺术的珍品,藏族的“百科全书”。
Thangka ( còn được viết là tangka, thanka), chỉ bức tranh tôn giáo được vẽ trên lụa, đóng khung treo lên để thờ cúng, là một loại hình nghệ thuật hội hoạ vô cùng độc đáo trong văn hoá của người Tạng. Tranh Thangka mặc dù trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng vẫn giữ được sắc màu tươi sáng, bắt mắt, vì thế được mệnh danh là báu vật của nghệ thuật hội hoạ dân tộc Trung Quốc, “Bách khoa toàn thư” của tộc người Tạng.

Những bức tranh tường thangka tinh tế trong chùa Tùng Tán Lâm ở Shangri-La, Địch Khánh, Vân Nam.
唐卡最早受尼泊尔风格的影响,在公元7世纪左右,随着佛教的大量传入,西藏境内盛行修建寺庙,当时寺庙内的壁画、塑像等都由尼泊尔和中国的画家、雕塑家塑绘,所以从这一时期到15世纪之前的由尼泊尔和藏族艺术家创作的作品被称为尼泊尔画派。之后又逐步形成在宗喀巴时期的齐岗画派;15世纪的勉唐画派和钦则画派;16世纪的噶玛嘎孜画派等。
Ở thời kỳ đầu, Thangka chịu ảnh hưởng của phong cách Nepal, vào khoảng thế kỷ thứ 7 sau công nguyên, cùng với sự du nhập mạnh mẽ của Phật giáo, có nhiều chùa chiền được xây dựng tại Tây Tạng. Những bức bích hoạ, tranh tượng trong chùa khi đó đều do những nhà điêu khắc, hoạ sĩ người Nepal và Trung Quốc sáng tác, vì thế những tác phẩm do các nghệ sỹ người Nepal và người Tạng sáng tác từ thời kỳ này đến trước thế kỷ 15 được xếp vào trường phái hội hoạ Nepal. Sau đó dần dần hình thành trường phái hội hoạ Qigang ở thời kỳ Tsongkapha, trường phái hội hoạ Miantang và Qinze ở thế kỷ 15, trường phái hội hoạ Gamagazi ở thế kỷ 16.
唐卡的绘制要求严苛、程序极为复杂,制作一幅唐卡用时较长,短则半年完成,长则需要十余年。选布时一般选用浅色、柔软且厚度适中的布料,其中以织工细密的纯白府绸或棉布最为适合,随后进行画布固定、上胶、打磨,直到画布平滑看不出布纹便可开始画出定位线,便于后续勾画草图。之后根据画面描绘的水泊、岩石、山丘、云雾等景物的不同涂上不同的色彩。上色时,一次只上一种色,先上浅色,后上深色。绘制佛像时,先绘莲花座,再画布饰,最后画佛身。画背景时,先上浅色后入深色,完成后再进行图案纹路的勾线。最后,绘出眉眼等五官,这是唐卡绘制过程最重要的一步。一幅唐卡的成败往往取决于眉眼开得是否成功,开好眉眼,就能起到画龙点睛的作用,同时预示着一幅唐卡的最终竣工。
Quá trình sáng tạo Thangka vô cùng phức tạp, yêu cầu nghiêm khắc, thời gian chế tác một bức Thangka tương đối lâu, nhanh thì nửa năm mới hoàn thành, lâu thì cũng phải hơn mười năm. Loại vải được chọn thường là loại màu nhạt, chất liệu mềm, với độ dày vừa phải, trong đó thích hợp nhất là loại vải lụa trắng hoặc vải bông. Sau đó cố định vải, phết keo, làm phẳng, cho tới khi không nhìn thấy một vết nhăn thì mới bắt đầu đưa những nét chính đầu tiên, rồi tiếp tục những nét phác thảo. Tiếp đó, căn cứ theo những chủ thể trong bức tranh như ao hồ, núi non, mây trời mà tô lên những màu sắc khác nhau. Khi tô màu, mỗi lần chỉ được lên một màu, tô màu nhạt trước, sau đó mới đến màu đậm. Khi vẽ tượng Phật phải vẽ đài sen trước, tiếp theo là hoa văn trang trí, cuối cùng mới đến thân Phật. Khi vẽ cảnh nền phải vẽ màu nhạt trước, màu đậm sau, sau đó mới đến các hoa văn, hình ảnh. Cuối cùng là vẽ đến ngũ quan, đây là khâu quan trọng nhất trong quá trình vẽ một bức tranh Thangka. Sự thành bại của một bức Thangka được quyết định ở việc có khắc hoạ thành công hình ảnh đôi mắt hay không, một đôi mắt đẹp sẽ có tác dụng thổi hồn cho cả bức tranh, đồng thời cũng báo hiệu đã đến giai đoạn kết thúc của quá trình chế tác một bức tranh.
唐卡之所以历经百年仍色泽鲜艳,犹如新绘制的艺术佳品,是因为其所用的颜料均为天然的矿物、植物,比如常见的矿物颜料有仁布白土(白)、朱砂(红)、青金石(石青)、孔雀石(石绿)、雄黄/雌黄(黄)、黄丹(橙)等;而植物颜料有花青色、胭脂色等,均通过采集花木清洗后浸泡或熬煮,得到不同颜色的汁水,经蒸发制成。
Thangka vẫn giữ được sắc màu tươi sáng của một tác phẩm hội hoạ như mới làm xong mặc dù đã trải qua hàng trăm là bởi vì sử dụng những nguyên liệu tạo màu từ các khoáng chất, thực vật thiên nhiên, một số nguyên liệu tạo màu từ khoáng chất thường thấy như màu trắng từ đất sét trắng renbu, màu đỏ từ chu sa, màu xanh lam từ đá Lazurite, xanh lá cây từ đá lông công Malachit, màu vàng từ hùng hoàng, thư hoàng, màu cam từ hoàng đan.v.v… Còn chất liệu tạo màu từ thực vật như màu xanh lục lam, màu hồng phấn.v.v… đều được lấy từ các loài hoa, sau khi rửa sạch, đem ngâm hoặc nấu lên, tạo thành những loại nước màu khác nhau, sau khi bốc hơi thu được các loại màu.

Hơn 40 họa sĩ bậc thầy tranh Thangka mất 1 năm để hoàn thành bức tranh "Thangka gấu trúc".
唐卡题材多以宗教为主,涉及历史、政治、经济、文化、民间传说、世俗生活、建筑、医学、天文、历算等领域,其中最常见的是宗教画——佛像。这种唐卡一般中心位置描绘主要人物,从画面上角开始,围绕主体,按顺时针方向与中心人物有关的人物、活动场所或故事布满四周。一般每幅唐卡都描绘了一个完整的故事,画面的景物随故事情节的需要而变化,不受历史、时间、空间的限制。画面人物也不受远近透视关系的影响,构图均衡、丰满、多变。
Thangka chủ yếu lấy đề tài về tôn giáo, liên quan đến các lĩnh vực lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thuyết dân gian, phong tục tập quán, kiến trúc, y học, thiên văn, bói toán, trong đó thường thấy nhất là tranh Phật trong tôn giáo. Loại hình Thangka thường đưa nhân vật trung tâm vào chính giữa, bắt đầu từ góc trên của bức hoạ, rồi xoay quanh chủ thể, thuận theo chiều kim đồng hồ vẽ tiếp những nhân vật, môi trường hay những câu chuyện liên quan tới nhân vật trung tâm. Thường mỗi bức Thangka đều thể hiện một câu chuyện hoàn chỉnh, cảnh vật trong tranh được thay đổi theo yêu cầu của tình tiết câu chuyện chứ không bị ràng buộc bởi các yếu tố lịch sử, thời gian và không gian. Nhân vật trong tranh cũng không bị ảnh hưởng bởi cách phối cảnh xa gần, bố cục cân đối, đầy đủ và vô cùng biến hoá.
还有的唐卡描绘了历史上重大的事件和活动。大昭寺、布达拉宫中的欢庆图,再现了唐朝文成公主驾抵逻娑时,吐蕃人民以节日盛装、载歌载舞的欢迎场面。
Có những bức Thangka miêu tả về những sự kiện và hoạt động lớn trong lịch sử. Những bức hình lễ đón mừng tại chùa Đại Chiêu, cung điện Potala đã tái hiện lại khung cảnh công chúa Văn Thành nhà Đường được gả sang La sa (đô thành nước Thổ Phiên thời nhà Đường, nay tên là Lhasa), nhân dân Thổ Phiên ca hát nhảy múa đón mừng như một ngày lễ lớn.
2008年6月,唐卡入选国家级第二批非物质文化遗产名录。
Tháng 6 năm 2008, Thangka được xếp hạng danh sách di sản văn hoá phi vật thể đợt 2 cấp quốc gia của Trung Quốc.